Có thể nói, chính tác phẩm đầu tay này của Tiểu Đoạn đã mang lại tiếng tăm cho anh, không chỉ chính thức đưa anh trở thành một cái tên đáng chú ý trong giới tác giả tiểu thuyết võ hiệp mới. Không chỉ vậy, tác phẩm còn định hình và giới thiệu phong cách viết của anh tới với công chúng.
Câu chuyện bắt đầu với một bối cảnh "thái bình giả tạo" vào đời Tống. Khi mà tất cả chỉ như một khoảng lặng trước khi bão về. Triều đình thi nhau tô vẽ một nền quốc thái dân an trong khi thực chất là thù trong giặc ngoài, quân Kim nhăm nhe bờ cõi, quan lại thối nát, nhũng nhiêu gây tai ương khiến dân đen khốn khổ. Nhưng như một quy luật thần kì của tạo hóa, loạn lạc sẽ sinh ra những anh hùng cái thế đứng ra giúp dân lành. Đó là Thẩm Phóng nghĩa khí, là Tam Nương Tử dù là phận nữ nhi cũng hiểu lễ nghĩa, thông tường đạo lý với tài trí hơn người. Họ đã cùng nhau kháng Kim cứu nước, mới đích thực là những anh hùng xả thân vì nước vì dân.
Tiểu Đoạn đã xây dựng nên các hình tượng nhân vật với những cá tính rõ rệt, được khắc họa qua các trường đoạn kịch tính hồi hộp và sâu sắc qua từng trang sách. Với bút pháp thuần thục và lôi cuốn người đọc bằng việc mang lại một không gian Trung Hoa cổ vừa tráng lệ vừa hào hùng, Tiểu Đoạn đã viết nên một bản anh hùng ca đáng nhớ trong tác phẩm này. Cuốn sách xứng đáng với bất cứ lời khen tặng nào và chắc chắn sẽ là một tác phẩm mà những bạn trẻ yêu thích văn học võ hiệp không nên bỏ qua.
***
Tiểu Đoạn, hay còn gọi là Đoạn tử, tên thật là Đoạn Ngân. Tiểu Đoạn là người đắm chìm trong cô độc, tự cho thế là làm hổ thẹn bố mẹ, nên lấy cái bút danh như trên. Tiểu Đoạn sinh năm 1973, sinh ở Tề Tề Cáp Nhĩ – Hắc Long Giang, quê ở Tùy Châu Hồ Bắc, thỉnh thoảng tạm cư ở Thẩm Quyến, hay đi chu du tứ phương.
Văn phong của Tiểu Đoạn được mệnh danh là từ thơ hóa thành văn, biểu hiện sự vật ở mức độ nhân tính hóa cao độ. Cách hành văn của Tiểu Đoạn mang phong cách của bậc đại gia, mạch lạc rõ ràng, câu chữ lưu loát trôi chảy, múa bút là như vẽ ra từng đóa hoa, chịu ảnh hưởng thâm sâu của cách hành văn cổ xưa.
Quan niệm sáng tác của Tiểu Đoạn rất cao xa bay bổng, thể hiện ẩn bên trong Tác Phẩm Tập Từ của anh.
Tác phẩm đại biểu của Tiểu Đoạn có Bôi Tuyết (còn gọi là Loạn Thế Anh Hùng truyện), Lạc Dương nữ nhân hành, Trường an cổ ý, Ma đồng, Thạch Lưu ký, Cung Tiêu duyên, Long thành, Khích Trung câu, Tá hồn đăng…
***
Năm thứ hai mươi lăm niên hiệu Thiệu Hưng đời vua Cao Tông nhà Nam Tống. Đối với lão bách tính định cư ở đất Mân, đất Cán vùng Giang Chiết mà nói, năm nay vẫn xem như là một năm tương đối yên bình. Chiến loạn hồi những năm mới dời xuống phương Nam(1) đã dần lắng chìm trong ký ức, những thứ khiến lòng người ưu phiền chỉ còn là thuế ruộng, thuế người, hạn hán ngập lụt, sâu bệnh mất mùa, có điều, những thứ này rốt cuộc lại chính là đao cùn hại người, từ từ cho tới lúc quen rồi thì cũng chẳng cảm thấy đau nữa, vừa khéo khiến đám người cai trị cao cao tại thượng an lạc, còn bọn dân đen bên dưới thì ngoan ngoãn phục tùng, cứ thế lại thành ra có chút phong vị của buổi yên ả thời bình. Nghe bảo người Kim ở Hoài Bắc mạn ấy mấy năm nay duệ khí cũng đã giảm, không còn được như trước. Giang hồ mênh mang, trời phân nam - bắc, một đoạn thời gian ấy, phường xu danh hám lợi càng nhiều thêm mà kẻ sĩ bi ca khẳng khái lại thành ra lác đác. Người ta tranh giành nhau, chẳng qua chỉ là trong khoảng sinh nhai hữu hạn, bo bo cái mạng nhỏ của mình, chẳng ai chú ý tới cái gọi là đại kế lập thân báo quốc.
Không sai, đó là loạn thế, đại nạn ở trước mắt. Đến một ngày người Kim vượt sông mà xuống thì sao? Trong chốn triều đình, cung trướng nội loạn xảy ra thì thế nào? Quân thần nghi ngờ lẫn nhau ngày một sâu thì phải làm sao? Tô thuế đến mức tan cửa nát nhà lại ra thế nào? Loạn dân kêu than khắp chốn lại phải làm sao?... Dẫu là ai thì cũng không thể nắm vững được kết quả chính xác. Nhưng cũng chính vì thế, con người ta mới càng vin lấy cảnh phồn hoa thoáng chốc ấy, giống như cảnh ca múa trong lầu ngoài các kia, phong hoa tuyệt thế, đẹp đẽ mỹ diệu, thế nhưng ai cũng biết đó chẳng qua chỉ là một thoáng mỹ cảnh, chẳng ai níu nổi dòng nước đang trôi. Có điều vì một thoáng mỹ cảnh ấy, thật không biết đã có bao nhiêu thiếu niên đa tình, quan lớn vinh hiển, tăng nho danh sĩ, sơn dã cao nhân không tiếc ngàn vàng so giá, ngồi la liệt bên lầu, mong cầu chẳng qua cũng là khoái lạc trong chớp mắt mà thôi... Lại cũng chẳng có ai đi tính toán, xem xem vì một chốc khoái lạc ấy, rốt cuộc đã tốn mất bao nhiêu thời gian, mài đi bao nhiêu tráng chí.
Đây là thời kỳ thái bình giả tạo, khoảng lặng giữa sóng động. Chỉ có triều đình là vẫn còn đang tô vẽ cho cảnh quốc thái dân an thịnh trị, mơ một giấc mộng đẹp rằng bốn bề ngăn nắp ổn yên. Kỳ thực chẳng lẽ chốn đồng ruộng khe hoang toàn là dân lành cả? Không thể tin được... Tới cả trẻ thôn lão xóm cũng rất thích nghe chuyện hiệp khách hồng nhan, mà lại chẳng biết những thăng trầm, hào sảng rung động ấy luôn xảy ra ngay bên cạnh họ...
Ngày hôm ấy, Giang Tô một dải, trên dòng Ngô Giang có một chiếc thuyền nan nho nhỏ đang dập dềnh. Ngô Giang vốn thuộc một nhánh của Thái Hồ, nước trong sóng nhẹ, nhưng mấy năm nay, nhiều bận gặp cảnh vó sắt giẫm đạp, cũng từng mấy phen cả dòng nhuộm đỏ. Từ trên thuyền trông ra, đôi bờ ruộng tốt, cỏ mọc um tùm, nhà dân thưa thớt, trời sầm mưa tới. Người trên thuyền than một tiếng, ngâm: “Bờ kia nếp đã trổ đầy, bờ kia ruộng lúa hây hây căng tràn.(2)” Câu này ở trong Kinh Thi, tỏ ý tiếc thương cái thế phải mất nước. Người trên thuyền nhìn dáng vẻ như kẻ đọc sách, thân hình cao lớn, áo quần đơn giản, sạch sẽ, tuy là một thân ăn vận văn sĩ nhưng lại không thấy cái khí chất nhỏ nhen, kém cỏi. Con thuyền nhỏ men bờ Nam xuôi theo dòng, dọc đường vắng bóng người, chỉ vì gần đây có lưu truyền tin đồn rằng: Nhiều người nói quân Kim kéo xuống phương Nam, chẳng mấy chốc là tới, bởi thế cả chặng đường không một bóng khách buôn. Người trên thuyền không khỏi thở dài một tiếng, kiểu tin đồn này một năm không biết lan truyền bao lần, thật đúng là thần hồn nát thần tính, trông cỏ cây mà cũng ngờ là binh lính. Nguồn cơn của lần đồn thổi này là do gần đây, sứ thần nhà Kim là Bá Nhan tới Lâm An đốc thúc việc triều cống. Lúc ấy nhà Nam Tống giữ mối quan hệ nước chú nước cháu với nhà Kim, hằng năm đều phải tiến cống cho nhà Kim số lượng lớn cống phẩm, ấy vậy mà lần này trong triều đình lại có người khăng khăng cản trở, Bá Nhan nổi giận, lời nói ra ngầm chứa ý uy hiếp, người Nam Tống đa phần thuộc phái sợ đánh, cho nên nhất thời sợ bóng sợ gió, dân chúng chẳng được sống yên ổn.
Người khách nọ ngóng về bờ bắc, bỗng nhìn thấy xa xa có một người một mình cưỡi một con vật, đang thong dong đi trên bờ ruộng. Hai bên cách xa, lại có cây ngăn giữa, con đường ven bờ khi ẩn khi hiện, từ trên thuyền nhìn sang, một người một vật cũng theo đó mà lúc thấy lúc không. Lúc thấy được thì cũng rất mơ hồ, không phân định rõ dáng hình, diện mạo, chỉ cảm thấy người nọ tựa hồ đã hòa thành một thể với con vật cưỡi. Mà điều khiến người ta thấy kỳ quái chính là con vật kia, vừa giống ngựa mà lại không ra ngựa, cao dị thường. Mấy ngày nay âm u mưa gió, con đường nhỏ giữa ruộng hẳn phải bùn lầy lắm, người đi ắt cũng trơn trượt, ấy vậy mà tuyệt không thấy con vật nọ chao đảo, làm kinh động tới người cưỡi chút nào. Con thuyền đi đã lâu, khách trên thuyền cứ thế ngắm một người một vật kia từ đằng xa, chỉ cảm thấy cứ nhìn kiểu này, bọn họ giống như một quầng đen nhàn nhạt, trong cơn mưa phùn miền Giang Nam này, khiến người ta có cảm giác lạ lẫm và trống trải khôn tả.
Ở đuôi thuyền là lão lái thuyền, trời lạnh nhường này vẫn cứ để chân trần mà đứng, đôi mắt đăm đăm nhìn dòng sông, toát lên vẻ bần hàn khó tả. Lúc sắp tới Trường Kiều của Ngô Giang, lão lái mới hỏi: “Quý khách, nghỉ một chút nhé?”
Vị khách gật đầu, lão lái mới chống chèo khỏa nước, vào tới bờ rồi vo gạo nhóm lửa, nấu một bữa cơm. Củi gỗ tùng ẩm ướt, khói bốc mù, lão lái nọ bị hun tới mức nước mắt giàn giụa. Một lúc sau thì thôi không quạt bếp nữa, lại bưng ra một cái hũ nhỏ, bốc ra mấy lát cá muối, chuẩn bị rán chín rồi mời khách dùng cơm.
Cầu Trường Kiều này là nơi thương khách ắt phải đi qua, vốn cũng là một nơi danh thắng nhưng vì nhiều năm binh hỏa, tới nay chỉ còn lại ba, bốn gian nhà ngói, mười mấy chỗ rào đất, cổng vắng chiều về, khiến người ta thấy mà hoài cảm. Văn sĩ bèn hỏi thăm một phụ nữ đang vo gạo bên sông: “Cả ngày nay không có khách nào qua đây sao?”
Người phụ nữ nọ đảo đảo gạo, liếc mắt đánh giá hắn một lượt, lắc đầu nói: “Từ hôm qua tới nay cũng chỉ có một đám sứ thần phương bắc với quan binh triều đình đi hộ tống, định ăn xong cơm, nghỉ chân chút rồi đi tiếp. Lại hiềm nơi này nhỏ, bèn tới tiệm Thất Lý ở thôn đối diện rồi.”
www.mphuong.name.vn
Văn sĩ nọ trông sang bờ bên kia, xa xa tầm hơn hai dặm có một thôn nhỏ, khói bếp đang lên, khoảng cách tuy xa nhưng bởi nơi này là một dải ruộng bằng nên vẫn nhìn thấy rõ. Rồi lại nghe người phụ nữ kia thở dài một tiếng, nói tiếp: “Dù lưu lại đây cũng làm gì có ai dám chiêu đãi? Lần trước mấy nhà ở Triệu Gia Kiều không biết có chỗ nào không chu đáo, đắc tội với thông dịch, bị hắn xúi người Kim, đem già trẻ lớn nhỏ nhà ấy treo lên, đánh chết biết bao người, cũng có ai dám quản đâu? Sống trong thời thế như bây giờ, thật đúng là nghiệp chướng mà!”Văn sĩ không khỏi trầm mặc, quay đầu nhìn cây cầu, cầu xây bằng đá, lan can đã có mấy chỗ sứt hỏng, trên trụ cầu buộc thuyền lờ mờ viết đầy chữ là chữ, thế bút ngang dọc, dấu mực lâm li. Đọc từ đầu, hóa ra là khúc Thủy Điệu Ca Đầu:
Bình sinh Thái Hồ thượng, đoản trạo kỷ kinh qua, ư kim trùng đáo hà sự? Sầu tỷ thủy vân đa. Nghĩ bả hạp trung trường kiếm, hoán thủ biển chu nhất diệp, quy khứ lão ngư xoa. Ngân ngải phi ngô sự, khâu hác dĩ tha đà. Khoái tân lô, châm mỹ tửu, khởi bi ca: Thái bình sinh trưởng, khởi vị kim nhật thức can quả! Dục tả tam giang tuyết lãng, tịnh tẩy Hồ trần thiên lý, vô vị vãn thiên hà. Hồi thủ vọng tiêu Hán, song lệ trụy thanh ba.
(Thái Hồ bầu bạn một đời
Chèo con một chiếc dong chơi bao lần
Như nay trở lại phân vân
Vì đâu sầu lại hơn phần nước mây
Đem trường kiếm trong hộp này
Mà đi đổi lấy cho tày thuyền nan
Ông chài áo rạ về nhàn
Này đây thao, ấn hỏi han làm gì
Núi khe bầu bạn lắm nghì
...
Lát cá mới, rượu ngon này
Bi ca một khúc cho hay nỗi đời
Thái bình buổi trước thảnh thơi
Để cho nay biết rày thời can qua
Muốn tháo nước ba sông sóng tuyết
Rửa cho trong muôn dặm giặc Hồ
Lấy gì mượn nước thiên hà
Quay đầu nhìn vũ trụ, lệ đổ sóng sông nhòa.)